Làng đảo La Hà

0:29, Thứ Sáu, 19-9-2014

Xem với cỡ chữ : A- A A+

LÀNG ĐẢO LA HÀ

Từ cửa biển Thanh Trạch ngược lên bến phà II, sông Gianh bắt đầu chia làm hai ngả. Nhánh ngược lên thượng nguồn Bố Trạch gọi là nguồn Son, nhánh ngược lên Tuyên Hóa gọi là nguồn Nậy. Doi đất nổi lên làm giao điểm cho hai nguồn sông ấy là làng La Hà (nay là xã Quảng Văn).  

La Hà - hòn đảo nằm giữa sông Gianh, là một trong bốn làng nổi tiếng về truyền thống khoa cử, có nhiều người đỗ đạt làm quan to trong các triều đại phong kiến. Câu ca “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ” (Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngọc) đã trở thành niềm tự hào ăn sâu bao đời trong tâm khảm của mỗi người dân Quảng Bình. Địa danh La Hà một thời đã đi vào văn chương, vào những vế đối nổi tiếng lưu truyền trong dân gian. Nhân dân La Hà kể lại rằng: Trong một cuộc thi đình, nhà vua có một vế đối : "Bò đi đá nhảy" (nghĩa là con bò đi qua khu Đá Nhảy - Lý Hòa) để thử sức các tân tiến sĩ. Câu đối được ghép từ bốn động từ, diễn tả các trạng huống hành động: vừa bò, vừa đi, vừa đá, vừa nhảy. Các tân tiến sĩ hôm ấy đều bó tay, duy chỉ có một vị tiến sĩ quê ở La Hà đã dùng địa danh của làng mình để đối lại : "Hùm hét La Hà". Vế đối cũng dùng bốn động từ ghép lại (vừa hùm, vừa hét, vừa la, vừa hà hơi ra, nhưng lại sử dụng toàn từ tượng thanh, nên có cái thế oai phong, dũng mãnh của vị chúa tể đang trấn an thiên hạ).  

Nhân dân còn kể lại rằng: Vào thời Minh Mạng, có thầy địa lý người Tàu qua đây, ông đứng xem thế đất rồi thốt lên: "Tam bút nghiên châu". Thì ra, phía tây La Hà có ba cồn đất nổi giữa sông là : Cồn Bông, Cồn Nổi và Cồn Giáp Tam. Ba cồn đất giống như ba cây bút đang chụm vào "nghiên mực" La Hà. Lời nhận xét của ông thầy địa lý đã trùng hợp ngẫu nhiên với truyền thống khoa cử của làng. "Nghiên mực" La Hà không bao giờ cạn trong tâm trí những bậc nho sĩ tài hoa.  

Trong cuốn "Hương triều đăng khoa lục" đã ghi danh hàng trăm người đậu cử nhân, có người đỗ giải Nguyên như: Tạ Kim Khuê, Trần Văn Chuẩn... Đặc biệt, trong cuốn ’’Quốc triều đăng khoa lục’’ đã ghi danh nhiều người con của La Hà đỗ đại khoa, trong đó có những hiện tượng độc đáo như thầy và trò cùng đỗ một khoa. Đó là khoa Tân Hợi (Tự Đức thứ 4 -1851), thầy là Phạm Nhật Tân và trò là Trần Văn Hệ, hai thầy trò cùng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Hoặc trong một gia đình bác cháu đều đỗ đại khoa. Đó là bác Tạ Kim Vực, đỗ phó bảng khoa Mậu Tuất (Minh Mệnh thứ 19-1838) và cháu là Tạ Hàm, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (Thành Thái thứ 4-1892).  

Chỉ tính trong triều Nguyễn, làng La Hà đã có bảy người đậu đại khoa (trong đó có 6 tiến sĩ, 1 phó bảng), có người làm quan đến thượng thư như: Trần Văn Chuẩn (đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất - Tự Đức thứ 5 -1861) làm thượng thư bộ công kiêm phó khâm sai đại thần. Trần Văn Thống (tức Diễn) cũng làm thượng thư bộ công (đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu - Thành Thái 13 -1901).

Đặc biệt, ông tiến sĩ tham biện nội các Tạ Hàm từng làm thái sư dạy Vua Duy Tân.  

La Hà không những chỉ sản sinh những bậc nho sĩ tài hoa mà còn sản sinh bao người con anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.  

Thời chống Pháp, La Hà là một trong ba làng nổi tiếng về tinh thần ngoan cường chiến đấu, được Quốc hội và Chính phủ tặng Huân chương quân công. Câu ca "Cự Nẫm anh hùng, Cảnh Dương anh dũng, La Hà chiến thắng" đã từng là nguồn cổ vũ tinh thần anh dũng của nhân dân Quảng Bình trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. La Hà đã rào làng chiến đấu, nhiều lần bắn cháy ca-nô, tiêu diệt nhiều toán giặc đến càn quét xóm làng. Nhiều người con La Hà đã hy sinh một cách anh dũng như liệt sĩ Trần Quỳnh (tỉnh ủy viên), Phạm Giang Hồ (trưởng ty công an), Trần Cưởi (đại đội trưởng dân quân) v.v... Thời chống Mỹ, La Hà là nơi trú ẩn của những tàu thuyền quân sự, nơi cất giấu hàng hóa Nhà nước. Tuy xóm làng nhiều lần bị bom đạn Mỹ thiêu hủy, nhưng nhân dân vẫn nhường cơm, sẻ áo, nhường hầm cho thương binh. Nhiều người con La Hà đã anh dũng băng qua bom đạn giặc để cứu thương binh, cứu hàng hóa Nhà nước. Nổi bật nhất là đồng chí Võ Văn Khuể (được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) đã liên tục lái ca-nô anh dũng băng qua bãi thủy lôi đưa hàng hóa tới nơi an toàn.  

Ngày nay, La Hà là quê hương của nón lá và mặt mây xuất khẩu. Hàng trăm người thợ lành nghề của La Hà đã trở thành những người thầy đi khắp mọi vùng để truyền nghề mây cho con em các địa phương trong tỉnh. Mỗi năm, La Hà cung cấp cho Nhà nước hàng vạn mét mặt mây xuất khẩu, góp phần đem ngoại tệ về xây dựng tỉnh nhà giàu mạnh.  

Lịch sử đã trải qua bao hiến đổi thăng trầm, nhưng hòn đảo La Hà vẫn là chiếc nôi chao đưa trong tiếng ru ngọt ngào, huyền thoại:  

Bao giờ hết cát Mỹ Hòa
Sông Gianh hết nước, La Hà hết quan
 

Lời ru ấy tuy hiện thời không phù hợp nữa, nhưng niềm tự hào về tổ tiên sẽ là điểm tựa để nhân dân La Hà nhân lên những truyền thống mới.

Các tin khác