Nghề xưa còn ở đất này? - Bài 2: Nhớ làng gốm Mỹ Cương

11:23, Thứ Sáu, 12-8-2016

Xem với cỡ chữ : A- A A+
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, làng gốm Mỹ Cương (nay thuộc phường Bắc Nghĩa, TP. Đồng Hới) đã không còn đỏ lửa. Những lò nung khi xưa nay chỉ còn là những tàn tích bị chôn vùi dưới lớp đất đá hàng chục năm qua. Nhưng thẳm sâu trong ký ức của người làng Mỹ Cương xưa, họ vẫn hoài niệm về một làng nghề từng nức tiếng trong và ngoài nước. Họ cũng đau đáu mãi một nỗi niềm: bao giờ làng nghề được hồi sinh?

Thời vang bóng

Theo cuốn Địa chí Đồng Hới của cụ Nguyễn Tú thì làng Mỹ Cương xưa là một cộng đồng thợ thủ công chuyên sản xuất đồ gốm và sản xuất gạch ngói. Nhiều cụ phụ lão cao niên cho rằng, làng quê này có gốc gác từ làng Ngọa Cương, ở Tuyên Hóa nhưng theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, địa danh này đã có từ thời Trịnh – Nguyễn.


Ông Trần Đình Dị (trái) và chuyên gia người Nhật trong cuộc khai quật lò gốm năm 1997.

Chẳng biết tự bao giờ, sản phẩm gạch ngói và gốm sứ Mỹ Cương được ca tụng và vang danh ở khắp nơi, mọi nẻo, như cụ Nguyễn Tú từng khẳng định: “Hầu như không có nơi nào dựng đình chùa mà không tìm đến Mỹ Cương đặt hàng ngói gạch. Bởi tấm ngói Mỹ Cương là loại ngói liệt, nhỏ, mỏng, nhưng trăm ngàn vạn tấm đều bằng phẳng, không bao giờ cong vênh, nên khi lợp lên mái đình, mái chùa rất phẳng, khít khao, không bao giờ dột”.

Trời phú cho người Mỹ Cương đôi bàn tay tài hoa và cũng ban phát cho nơi đây một đặc ân hiếm có, đó là những vỉa tầng đất sét màu nâu nằm ngay cạnh con sông nhỏ Mỹ Cương. Đất sét Mỹ Cương đặc biệt ở chỗ rất dẻo, lên màu đẹp, dùng làm đồ gốm rất tốt.

Ông Trần Đình Dị (85 tuổi, tổ dân phố 7, phường Bắc Nghĩa) vốn sinh ra trong gia đình làm nghề gốm truyền đời. Thời trai trẻ của ông đã đi qua những năm tháng hưng thịnh rồi suy tàn của làng gốm quê nhà. Ông bảo, sản phẩm chủ yếu của làng gốm Mỹ Cương ngày ấy là ấm chén trà, chum, vại, hũ... có độ bền cao, hình dáng đẹp.

Các sản phẩm gốm Mỹ Cương trước đây đã được xuất sang Nhật qua cảng Hội An, người Nhật rất thích dùng bộ đồ trà của Mỹ Cương vì chúng chắc chắn, bền màu và thích hợp với trà đạo của xứ sở hoa anh đào. Bộ ấm trà hiện đang còn lưu giữ tại nhà ông Dị cũng nói lên tài năng của những người thợ gốm Mỹ Cương ngày đó.

Theo ông, người thợ Mỹ Cương giữ cho mình bí quyết riêng nên những chiếc chén trà nhỏ, dù có nghiêng ngã cỡ nào cũng tự đứng thẳng dậy, chứ không lăn tròn rồi rơi vỡ như những loại chén bình thường khác. Các sản phẩm đều được láng ngoài bằng một lớp men nước tro để khi nung chín tạo cho da của gốm có màu nâu đậm khá đẹp.

Chúng tôi nhìn thấy trong ánh mắt, trong câu chuyện kể của những người dân Mỹ Cương đã từng đi qua những ngày tháng thăng trầm của làng nghề ánh lên niềm hy vọng.

Đó là những ông già, bà lão đã vào tuổi 80, 90 nhưng vẫn đau đáu được một nỗi niềm: hồi sinh làng nghề của ông cha.

Gạch Mỹ Cương cũng nức tiếng gần xa bởi hình dáng vuông vắn, góc cạnh thẳng tắp. Tích cũ kể lại rằng khi vua Minh Mạng cho xây thành Đồng Hới, làng Mỹ Cương là nơi cung cấp các loại gạch đặc biệt để xây nên bức thành lũy vững vàng còn sót lại cho đến hôm nay.

Níu nghề?

Hôm nay, trong vườn nhà ông Trần Đình Dị vẫn còn một lò gốm cổ nằm ẩn mình dưới những lớp đất đá hơn nửa thế kỷ. Nhìn thoáng qua, sẽ không ai biết rằng dưới lớp trầm tích ấy, hàng chục năm trước vốn là một lò gốm quanh năm đỏ lửa. Và cũng chính tại nơi đây, những sản phẩm từ đôi bàn tay tinh xảo của người Mỹ Cương, từ tinh túy của mảnh đất bên con sông nhỏ đã trở thành sản phẩm nổi tiếng khắp xa gần.

Cách đó không xa, ngay trong những bụi tre um tùm bên bờ sông Mỹ Cương, vẫn còn lại một bầu ống khói khá lớn nằm lộ thiên. Với người Mỹ Cương, đó là những chứng tích chất chứa nhiều hoài niệm đẹp. Nhiều đổi thay đã khoác áo lên mảnh đất này nhưng những dấu tích năm xưa vẫn còn lưu lại đến hôm nay như một chút hoài niệm về một nghề đã từng gắn bó máu thịt với bao đời ông cha họ.

Ông Dị kể, khoảng tháng 3-1997, các nhà khảo cổ học Nhật Bản và Việt Nam đã tiến hành khai quật tại nơi đây. Cứ một mét đất được đào lên, các nhà khảo cổ lại lấy một lớp đất để nghiên cứu. Những di chỉ khảo cổ được khai quật được tại thời điểm đó chủ yếu là các mảnh sành, sứ của chum, vại, bình hoa... dù đã không còn nguyên vẹn nhưng những nét văn hóa còn khá rõ nét. Trong 3 lò gốm được khai quật tại vườn nhà và bên bờ sông, các nhà khảo cổ học Nhật Bản cho biết: lò gốm sớm nhất ở đây được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII, muộn nhất là cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Cách đây chừng vài năm, các đối tác người Nhật mong muốn được khôi phục lại làng nghề và bảo đảm đầu ra cho sản phẩm. Lời hứa hẹn ấy đã thắp lửa niềm tin cho bao thế hệ dân làng nơi đây, thế nhưng, đến hôm nay, vẫn chưa nhận được hồi âm nào.


Các sản phẩm gốm Mỹ Cương còn sót lại tại nhà ông Trần Đình Dị.

Dù đôi thứ đã không còn nguyên vẹn, nhưng vẫn được họ cất giữ cẩn thận, đặt trang trọng trên ban thờ tổ tiên. Những bộ ấm trà, bình hoa dù đã cũ nhưng nét vẽ còn rất tinh tế và bền màu, điều đó chứng tỏ, ngay từ rất lâu đời, sản phẩm gốm Mỹ Cương đã đạt đến độ tài hoa đáng nể.

Ông Dị bảo, đã không ít người hỏi mua những món đồ cổ này nhưng ông nhất định không bán, dù đã có lúc kinh tế gia đình tưởng như kiệt quệ. “Tiền mấy rồi cũng hết, bán hết những thứ ni đi thì sau lấy chi kể cho con cháu. Đây lại là những thứ do ông, cha làm ra nữa”, ông Dị khẳng định.

Ông Đặng Văn Thiều, Chủ tịch UBND phường Bắc Nghĩa cho rằng việc khôi phục làng nghề xem ra khó thực hiện bởi đến hôm nay, những lớp thợ lành nghề thế kỷ trước đã chẳng còn được bao người. Đó là chưa kể đến việc chất lượng mỏ đất sét vẫn chưa được kiểm định lại.

Nhưng điều mà người dân Mỹ Cương mong muốn là xây dựng di chỉ khảo cổ này trở thành một địa chỉ văn hóa – lịch sử bài bản để vừa là điểm đến du lịch, vừa là địa chỉ sinh động để giáo dục truyền thống cho con em địa phương. Thế nhưng, cũng chung số phận với rất nhiều các di chỉ khảo cổ khác, các lò gốm Mỹ Cương vẫn còn bị vướng mắc trong khâu xây dựng hồ sơ di tích khi chúng nằm trong vườn, hoặc sát khu vực trồng tre ven bờ sông của dân.

Chia tay làng nghề xưa cũ, chúng tôi cứ ám ảnh mãi ánh mắt ngẩn ngơ, tiếc nuối của ông Dị, của lớp người già làng Mỹ Cương hôm nay và đau đáu mãi bởi câu hỏi: “Bao giờ làng nghề được hồi sinh?”

Chúng tôi nhìn thấy trong ánh mắt, trong câu chuyện kể của những người dân Mỹ Cương đã từng đi qua những ngày tháng thăng trầm của làng nghề ánh lên niềm hy vọng. Đó là những ông già, bà lão đã vào tuổi 80, 90 nhưng vẫn đau đáu được một nỗi niềm: hồi sinh làng nghề của ông cha. Như một cách để họ níu kéo tinh hoa thời quá vãng, trong rất nhiều gia đình Mỹ Cương vẫn còn giữ một vài sản phẩm gốm Mỹ Cương ngày đó.

Theo Báo Quảng Bình

Các tin khác